Khí Argon Là Khí Gì

Khí Argon Là Khí Gì

Hiện nay có rất nhiều phương pháp hàn khác nhau giúp cho công việc hàn nối, sửa chữa các công cụ, thiết bị kim loại sử dụng trong gia đình hay công nghiệp trở nên dễ dàng hơn. Mỗi phương pháp hàn lại phù hợp với từng loại công việc và vật liệu khác nhau. Một trong những phương pháp hàn từng rất phổ biến được sử dụng rộng rãi đó là phương pháp hàn khí. Hãy cùng Khí Hà Nội tìm hiểu về phương pháp hàn này qua bài viết dưới đây.

Hiện nay có rất nhiều phương pháp hàn khác nhau giúp cho công việc hàn nối, sửa chữa các công cụ, thiết bị kim loại sử dụng trong gia đình hay công nghiệp trở nên dễ dàng hơn. Mỗi phương pháp hàn lại phù hợp với từng loại công việc và vật liệu khác nhau. Một trong những phương pháp hàn từng rất phổ biến được sử dụng rộng rãi đó là phương pháp hàn khí. Hãy cùng Khí Hà Nội tìm hiểu về phương pháp hàn này qua bài viết dưới đây.

Khí Hà Nội cung cấp khí Oxy Axetilen và các loại máy hàn chất lượng cao

Nếu bạn đang có nhu cầu mua đất đèn, khí oxy, khí axetilen để phục vụ nhu cầu hàn khí vui lòng liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay để nhận tư vấn và giao hàng miễn phí. Khí Hà Nội là một trong những nhà cung cấp Khí Oxy công nghiệp, Khí Axetilen (C2H2) uy tín hàng đầu, chúng tôi chuyên sản xuất, chiết nạp, bán lẻ khí heli chất lượng cao.

Ngoài ra, chúng tôi còn cung cấp các loại vỏ bình chứ khí. Quý khách hàng có nhu cầu đặt hàng có thể liên hệ số điện thoại 0969.690.155 để được tư vấn trực tiếp, miễn phí!

Khí nhà kính (Greenhouse Gases - GHG) là các loại khí tồn tại trong bầu khí quyển, có khả năng hấp thụ và phản xạ tia bức xạ nhiệt.

Cụ thể, các loại khí nhà kính có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài (bức xạ hồng ngoại) trong dải bước sóng của trái đất gây ra, được phản xạ từ bề mặt khi được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt trời, rồi phân tán nhiệt lại trái đất.

Khí nhà kính chủ yếu bao gồm hơi nước, CO2, CH4, N2O, O3 và các khí CFC. Nghị định thư Kyoto xác định 6 loại khí nhà kính (GHG) do các hoạt động của con người tạo ra gồm CO2, CH4, N2O2 và 3 loại khí Flo (hydrofluorocarbons, perfluorocarbons và sulphur hexafluoride).

Nguyên nhân thay đổi nồng độ khí nhà kính

Hàng triệu đến hàng nghìn năm trước, nồng độ khí nhà kính thay đổi bởi hoạt động núi lửa, giải phóng CO2 và hơi nước. Cùng với đó, quá trình phong hóa đá tạo ra phản ứng hóa học làm giảm lượng CO2 trong khí quyển.

Các thế kỷ gần đây, thay đổi nồng độ khí nhà kính do tan chảy của tầng băng vĩnh cửu vốn chứa lượng lớn metan (CH4). Khi chúng tan do nhiệt độ toàn cầu tăng, metan sẽ được giải phóng vào khí quyển. Nhiệt độ nóng hơn cũng đẩy nhanh quá trình phân hủy chất hữu cơ, gia tăng lượng khí nhà kính.

Cùng với đó, nhiệt độ toàn cầu tăng dẫn đến tăng quá trình bốc hơi nước vào khí quyển. Biến đổi trong sinh khối và năng suất sinh học cũng ảnh hưởng đến chu trình carbon. Carbon tạo ra qua hô hấp, phân hủy chất hữu cơ và cháy rừng.

Hiện nay, thay đổi nồng độ khí nhà kính chủ yếu đến từ hoạt động của con người, bao gồm:

- Đốt nhiên liệu hóa thạch: thải CO2 và N2O

- Hoạt động nông nghiệp: chăn nuôi gia súc (bò, cừu) và canh tác lúa tạo ra CH4. Phân bón chứa nitrate làm tăng nồng độ dinh dưỡng trong đất, giải phóng N2O. Sử dụng máy móc trong nông nghiệp cũng góp phần thải khí nhà kính.

- Phá rừng và cháy rừng: đốt và phân hủy cây rừng thải ra CO2 và N2O.

- Các quy trình công nghiệp: sản xuất xi măng từ đá vôi giàu carbon, rò rỉ khí tự nhiên và việc sử dụng hydrofluorocarbons (HFCs) trong làm lạnh và điều hòa không khí đều thải khí nhà kính vào khí quyển.

Hiệu ứng nhà kính và nóng lên toàn cầu

Khí nhà kính đóng vai trò quan trọng trong việc giữ ấm Trái Đất, tạo ra hiệu ứng nhà kính tự nhiên giúp duy trì sự sống. Nếu không có khí nhà kính, nhiệt độ trung bình của bề mặt Trái đất sẽ là khoảng -18 độ C.

Tuy nhiên, khi nồng độ các khí nhà kính tăng cao do hoạt động của con người, hiệu ứng này trở nên quá mức, dẫn đến hiện tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Bảo tàng Cổ sinh vật học thuộc Đại học California (UCMP) cho biết, kể từ những năm 1960, các nhà khoa học đã đo nồng độ CO2 trong khí quyển ở nhiều địa điểm khác nhau.

Từ đó đến nay, CO2 đã tăng từ khoảng 315 phần triệu lên hơn 420 phần triệu. Trong khi đó, qua kỹ thuật trích xuất không khí cổ đại bị mắc kẹt trong băng, các nhà khoa học cho biết nồng độ CO2 trong khí quyển cách đây 800.000 năm không bao giờ vượt quá 300 phần triệu.

Mô tả hiệu ứng khí nhà khí. Ảnh: The Teacher Friendly GuideTM to Climate Change, Dỹ Tùng dịch

Cùng với CO2, CH4 và các khí HFC hấp thụ và bức xạ lại nhiệt, ngày càng làm ấm tầng khí quyển. Vì vậy, dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong khí quyển, những thay đổi nhỏ về nồng độ của chúng có thể làm thay đổi đáng kể cường độ của hiệu ứng nhà kính, từ đó ảnh hưởng đến nhiệt độ trung bình của trái đất.

Với đà phát thải khí nhà kính tăng, nồng độ khí nhà kính đậm đặc hơn dẫn đến hiện tượng nóng lên toàn cầu, làm thay đổi mô hình thời tiết và gây ra các hiện tượng cực đoan như bão lụt và hạn hán. Ngoài ra, nhiệt độ tăng cũng khiến băng tan ở hai cực, khiến nước biển dâng.

Theo NASA, nếu nhiệt độ tăng lên 2 độ C, mực nước biển sẽ dâng cao 20cm ở hơn 70% bờ biển của Trái Đất, dẫn đến lũ lụt ven biển gia tăng, xói mòn, nhiễm mặn và các tác động khác đến con người và hệ sinh thái.

Khi hệ sinh thái bị biến đổi, mất cân bằng sinh thái sẽ làm gia tăng nguy cơ tuyệt chủng đối với nhiều loài sinh vật, ảnh hưởng đến đa dạng sinh học. Ngay với con người, nhiệt độ tăng cao cùng với ô nhiễm không khí làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh về đường hô hấp và các bệnh truyền nhiễm.

Cách kéo giảm hiệu ứng nhà kính

Vào năm 1995 tại Berlin (Đức), Hội nghị các Bên tham gia Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (COP) lần đầu được tổ chức và về sau diễn ra hàng năm. Đến nay, COP đã diễn ra 28 kỳ.

Tại COP26, Hội nghị đưa ra mục tiêu giữ nhiệt độ trái đất không tăng quá 1,5 độ C. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc, nếu thế giới đạt được Net Zero vào giữa thế kỷ, tăng nhiệt độ toàn cầu có thể được kiềm chế ở mức khoảng 1,5 độ C. Hàng loạt quốc gia hứa hành động. Trong đó, tại COP26, Việt Nam cũng công bố cam kết Net Zero vào 2050.

Net Zero là lượng phát thải khí nhà kính bằng với lượng hấp thụ và loại bỏ bằng nhiều phương pháp khác nhau. Trước hết, cần giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch bằng cách chuyển đổi sang các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời và năng lượng sinh khối.

Tiếp theo, cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng thông qua áp dụng các công nghệ tiên tiến sẽ giúp tiết kiệm năng lượng trong sản xuất và tiêu dùng. Một biện pháp khác là tăng cường trồng rừng và bảo vệ rừng, bởi cây xanh có khả năng hấp thụ CO2, giúp giảm lượng khí nhà kính trong khí quyển.

Ngoài ra, cần sử dụng và tái chế hợp lý tài nguyên để hạn chế lượng rác thải và phát thải từ các hoạt động công nghiệp và sinh hoạt. Đồng thời, đẩy mạnh các giải pháp công nghệ như thu giữ và lưu trữ carbon (CCS) để loại bỏ CO2 trực tiếp từ các nguồn phát thải lớn.

Các giải pháp này được quốc tế và các quốc gia triển khai thông qua tuyên truyền vận động lẫn bắt buộc doanh nghiệp, cộng đồng chuyển đổi nguồn năng lượng và công nghệ sản xuất, gia tăng hoạt động tái chế, trồng rừng và bảo vệ môi trường.

Nguồn tài chính hỗ trợ cho quá trình này đến từ nhiều nguồn công lẫn tư, với một số nguồn tài chính chuyên biệt để hỗ trợ như ngân sách nhà nước thông qua thuế carbon, cấp trả phí/đấu giá hạn ngạch carbon và phát triển thị trường carbon tự nguyện để các dự bán carbon có thể giao dịch tín chỉ.

Hàn khí là gì? Hàn gió đá là gì?

Có rất nhiều tên gọi khác nhau cho phương pháp hàn đặc biệt này, như hàn khí đá, hàn gió đá, hàn hơi, hàn oxy… Đây là một phương pháp hàn tương đối đặc biệt khi có thể không cần sử dụng que hàn. Thay vào đó, trong quá trình hàn người ta sẽ sử dụng khí oxy kết hợp với một loại khí cháy khác như hidro, axetilen, khí benzen, hơi xăng hoặc khí than đá. Trong thực tế vì lý do chi phí, người ta chủ yếu sử dụng khí axetilen làm khí hỗ trợ nên có thể gọi đây là phương pháp hàn Oxy Axetilen. Phương pháp này dựa trên phản ứng hóa học tỏa nhiệt của khí oxy và khí cháy khác khiến cho nhiệt độ của vật liêu cần hàn tăng lên nhanh chóng. Phần kim loại tại vị trí hàn sẽ nóng chảy và liên kết với nhau tạo thành mối hàn sau khi nguội đi. Đây là một phương pháp hàn linh hoạt có thể được sử dụng cho nhiều loại kim loại, cả kim loại đen và kim loại màu. Ngoài ra phương pháp hàn Oxy Axetilen còn rất đặc biệt khi có thể vừa dùng để hàn, vừa dùng để cắt kim loại.

Vì thép chỉ nóng chảy ở nhiệt độ trên 1.500 °C, oxy và axetilen là hỗn hợp khí duy nhất có nhiệt độ thích hợp. Tuy nhiên nếu sử dụng các loại khí khác như như propan, hidro và khí than có thể hàn các kim loại khác như thiếc, bạc hay các kim loại màu có điểm nóng chảy thấp hơn.

Nguyên nhân của tên gọi hàn khí đá hay hàn gió đá bắt nguồn từ chính phương pháp hoạt động ban đầu của quá trình hàn này. Thiết bị hàn bao gồm bình chứa khí có 2 ngăn. Ngăn trên chứa nước, ngăn dưới chứa đất đèn (CaC2) hay còn gọi là khí đá. Khi cần thực hiện hàn cắt, kỹ thuật viên sẽ mở khóa của ngăn trên để nước nhỏ giọt xuống bình phía dưới. Phản ứng hóa học giữa nước (H2O) và  khí đá (CaC2) sẽ tạo ra khí Axetilen (C2H2). Khí này theo ống dẫn sẽ được đưa vào bét hàn với hỗn hợp oxy. Khi cháy, nó tạo ra nhiệt độ rất cao để đốt nóng kim loại, làm nóng chảy kim loại và cho phép hàn nó. Đất đèn CaC2 tồn tại ở trạng thái rắn, nhìn không khác gì một cục đá thông thường  nên tên gọi “hàn khí đá” cũng bắt nguồn từ đây. Ngày nay, đất đèn đã dần không còn được sử dụng, mà thay vào đó là các chai nén khí đem lại hiệu quả kinh tế cao và an toàn, sạch sẽ hơn. Tuy nhiên, tên gọi cũ vẫn được sử dụng thường xuyên.

Chất lượng của mối hàn khí phụ thuộc chủ yếu vào cách chọn công suất của mỏ hàn, cách điều chỉnh ngọn lửa hàn, chất lượng que hàn, cách chọn phương pháp hàn cũng như độ nghiêng của mỏ hàn. Que hàn dùng để hàn khí thường có các thành phần hóa học tương tự với vật hàn (tức là hàn kim loại nào thì que hàn thường sử dụng vật liệu đó). Gần đây người ta còn dùng thêm một số que hàn chất Crom, Vanadi, Niken, Đồng… Có 2 phương pháp hàn chính đó là: hàn phải và hàn trái.

Tùy vào tỷ lệ oxy và khí hỗ trợ mà ngọn lửa được tạo ra có thể chia là 3 khác nhau: ngọn lửa trung tính, oxy hóa và thấm cacbon.

Nhìn chung, đây là phương pháp hàn khá lỗi thời, nó tồn tại nhiều nhược điểm khi so sánh với các công nghệ hàn hiện đại như TIG, MIG. Đặc biệt là không thể tự động hóa.